Bối cảnh Lễ Phục Sinh

Tranh vẽ biểu tượng của chính thống giáo Nga mô tả câu chuyện Phục Sinh.

Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover), ông vào Đền thờ Jerusalem và được người dân đón tiếp bằng lá cây lót đường và vẫy mừng (nay gọi là Chúa nhật Lễ Lá). Vào ngày thứ năm (nay là ngày Thứ năm Tuần Thánh), Giêsu thực hiện nghi thức rửa chân các môn đồ và dùng bữa ăn cuối cùng (Tiệc Ly) với các môn đồ. Buổi tối hôm đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền thưởng.

Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu vào ngày thứ sáu (nay là lễ Thứ sáu Tuần Thánh). Tuy nhiên, theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI (của câu: "Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái") được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate. Giêsu bị buộc phải tự vác thập tự giá lên đồi Golgotha, nơi ông bị đóng đinh và chết.

Các Kitô hữu tin rằng Giêsu sống lại vào ngày chủ nhật, ba ngày sau khi chết trên thập tự giá. Các phụ nữ, trong số đó có bà Maria Magdalena đến thăm nhà mồ nhưng chỉ thấy ngôi mộ trống rỗng. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là Sự phục sinh của Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh. Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày sau khi sống lại, và sau đó về trời (nay là Lễ Thăng Thiên). Ngày thứ 50 kể từ sau sự kiện Phục sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ và loan báo tin mừng, theo Tân Ước, ngày này cũng được xem là ngày khai sinh ra Giáo hội.